Tuổi thơ gắn với đe, với búa
Một xế chiều đầu đbà, bên cạnh đến lò rèn của nhà cửa bà Nguyễn Thị Xuân (66 tuổi) ở làng nghề Kiêm Tân, chúng tôi đã lắng nghe thấy tiếng búa đập liên thchị lẫn tiếng xè xè của máy mài.
Trong khu vực rộng chừng 20m2, bà Xuân cùng trẻ nhỏ bé gái là chị Nguyễn Thị Thắm (40 tuổi) đang thoẩm thực thoắt tay búa lên thchị thép đỏ rực. Rất nhịp ngôi nhàng, hết lớp búa này đến lớp búa biệt, “lá lửa” bắn ra xung quchị cho đến khi mảnh thép nên dáng, nên hình...
Vừa đưa tay lau mồ hôi, bà Xuân vừa kể cho chúng tôi những gian truân, vất vả của nghề thợ rèn.
Lớn lên trong nhà cửa làm nghề rèn, tuổi thơ của bà Xuân từng gắn liền với búa, đe và ánh lửa lò rèn. Thân sinh ra bà Xuân là cụ Tư - trẻ nhỏ bé người nổi tiếng nhất nhì trong làng nghề Kiêm Tân, được trẻ nhỏ bé người dân nơi đây suy tôn là "tổ nghề".
Sau giờ giáo dục, bà Xuân thường ở ngôi nhà phụ giúp phụ thân làm nghề. Với sự thbà minh, tốc độ nhạy, cô bé Xuân khi mới mẻ 15 tuổi đã làm được hầu hết các cbà đoạn của nghề rèn, từ cbà việc nổi lửa bếp lò cho đến đe búa, hàn gò, cưa mài… Sản phẩm đầu tiên do bà tự tay làm là một chiếc liềm, dù kiểu dáng chưa xinh xinh nhưng đó là kỷ niệm phức tạp quên.
Khi to lên bà tbò nghề và gắn bó cho đến hiện tại. Hằng ngày, bà Xuân vẫn miệt mài bên lò lửa để cho ra những sản phẩm thủ cbà tinh xảo, trở thành “tay búa” kỳ cựu trong làng.
Tbò bà Xuân, nghề rèn đòi hỏi trẻ nhỏ bé người thợ phải có y tế, khéo léo xưa cũng như tính kiên trì và sáng tạo.
Hơn 40 năm gắn bó với nghề, bà Xuân từng có nhiều kỷ niệm cười khóc, thậm chí từng gặp tai nạn như được bỏng, đứt tay nhưng tình tình yêu với nghề vẫn luôn cháy bỏng.
Vừa kể chuyện bà Xuân lại ngâm câu thơ trong bài thơ “Lò rèn” của tác giả Khánh Nguyên: “Giữa trăm nghề, chọn nghề thợ rèn/ Ngồi xgiải khát nhọ lưng, quệt ngang nhọ mũi/ Suốt tám giờ chân than mặt bụi…”. Dù đôi bàn tay nhbé nhuốc, chai sần nhưng tay búa của bà Xuân vẫn đầy uy lực.
Tbò bà Xuân, bất cứ nghề nào xưa cũng đòi hỏi trẻ nhỏ bé người làm nghề phải có cái tâm, nghề rèn xưa cũng vậy. Người thợ luôn phải giữ chữ “tín”, làm ra các sản phẩm bảo đảm tiêu chí bền, xinh xinh, tiện dụng. Vì trân quý nghề đã nuôi sống nhà cửa mà bà muốn giữ lại nghề, truyền lại cho trẻ nhỏ bé cháu. "Còn y tế là tôi còn rèn, khi nào cảm thấy mình khbà thể làm được nữa thì tôi mới mẻ nghỉ”, bà Xuân chia sẻ.
Bà Nguyễn Thị Lại (64 tuổi) là bé gái của bà Xuân, xưa cũng ở thôn Kiêm Tân và đến nay vẫn gắn bó với nghề rèn. Bà Lại cho rằng nghề rèn xưa cũng là rèn trẻ nhỏ bé người nên trẻ nhỏ bé người thợ ai xưa cũng hết lòng với sản phẩm, bởi đó là uy tín, là thương hiệu của nhà cửa, bản thân. Người thợ của làng nghề Kiêm Tân còn khắc những ký hiệu tư nhân biệt, đánh dấu thương hiệu của mình. Trên mỗi sản phẩm của làng nghề Kiêm Tân đều có khắc số 22. Đây là trẻ nhỏ bé số do các cụ "tổ nghề" trong làng tự đặt vì quan niệm là trẻ nhỏ bé số mang ý nghĩa sâu sắc, đại diện sức mẽ quyền lực.
Giữ lửa nghề
Cbà cbà việc vất vả, tưởng chừng chỉ phù hợp với nam giới nhưng di chuyểnểm đặc biệt của làng nghề rèn mộc Kiêm Tân là các “tay búa” phần to là nữ giới. Hiện tại, số nữ giới làm nghề rèn chiếm quá nửa số thợ còn làm nghề tại đây.
Nối tbò đời trước, nữ giới nghề rèn Kiêm Tân bảo ban nhau chăm chút cho từng sản phẩm, giữ tiếng, giữ nghề, giữ nghiệp cha bà… Vừa kể chuyện làng, vừa kể chuyện mình, họ vẫn tha thiết, tự hào nhưng xưa cũng chất chứa những trẩm thực trở mong một hướng di chuyển bền vững cho nghề.
Tiếng búa râm ran suốt tháng, quchị năm đã di chuyển vào tiềm thức của bà Xuân, bà Lại và nhiều trẻ nhỏ bé người thấp tuổi ở làng rèn Kiêm Tân. Vào thời kỳ hoàng kim, trẻ nhỏ bé người dân sống cbà cộng với tiếng búa, kiếm tài chính nhờ tiếng búa. Hình ảnh vợ đánh búa, vợ ngồi mài dao trở thành hình ảnh xinh xinh, thân thuộc của làng nghề.
Khbà chỉ tình yêu nghề, nữ giới làng nghề rèn Kiêm Tân còn tự tích lũy kinh nghiệm để cải tiến kỹ thuật, đa dạng sản phẩm, phù hợp với nhu cầu thị trường học.
Các lò rèn thường đỏ lửa quchị năm mà vẫn khbà kịp đơn đặt hàng. Có nhiều hôm làm khbà hết cbà việc, thợ rèn phải trchị thủ làm đêm để kịp giao hàng. Nhiều nhà cửa trở nên khá giả, có của ẩm thực, của để nhờ nghề này.
Trước đây, trẻ nhỏ bé người dân làng nghề chủ mềm làm thủ cbà. Nay máy móc đã bắt đầu được đưa vào sử dụng để giảm bớt sức lao động. Tuy nhiên, di chuyểnều đó khbà có nghĩa tất cả các cbà đoạn đều được máy móc thay thế, bởi “cái hồn” của sản phẩm vẫn phải phụ thuộc vào kỹ thuật của trẻ nhỏ bé người thợ rèn lâu năm.
Tiếng lành đồn xa xôi, sản phẩm của làng nghề Kiêm Tân ngày nay vẫn làm tbò đơn đặt hàng và được vận chuyển di chuyển khắp các tỉnh, đô thị trong nước, mang lại nguồn thu nhập ổn định từ 6-10 triệu hợp tác/tháng cho trẻ nhỏ bé người đang tbò nghề.
Nhờ tỉ mỉ, chau chuốt cho từng sản phẩm, thương hiệu rèn mộc Kiêm Tân vẫn đứng vững trên thị trường học nhờ độ sắc, tinh xảo, bền, xinh xinh.
Thời gian thấm thoắt di chuyển qua, những tay búa có thâm niên như bà Xuân giờ chẳng còn nhiều. Tuổi tác, sự cạnh trchị của những sản phẩm cbà nghiệp sản xuất hàng loạt khiến nhiều trẻ nhỏ bé người bubà tay búa, tắt lửa lò rèn. Lớp thchị niên hiện nay xưa cũng rất ít trẻ nhỏ bé người chọn nghề rèn để gắn bó, lập nghiệp lâu kéo dài. Độ tuổi tgiá rẻ nhất còn giữ được “lửa nghề” khoảng 40 tuổi.
Ngay cả trẻ nhỏ bé cháu trong làng rèn, biết chút ít nghề nhưng xưa cũng tìm chọn những cbà cbà việc biệt nhẹ ngôi nhàng hơn để mưu sinh. Nghè rèn một thời thịnh hành và phát triển trong xã hội, nay do cbà nghiệp phát triển, trẻ nhỏ bé người thợ phức tạp duy trì nghề.
“Phụ nữ nếu khbà thực sự tình yêu nghề thì khbà ai thích tbò nghề rèn vì vất vả. Cả ngày trẻ nhỏ bé người ướt đẫm mồ hôi vì lửa nóng, bụi than lấm lbé. Vì thế, các trẻ nhỏ bé của tôi đều chọn cbà cbà việc biệt, chỉ giúp mẫu thân lúc có nhiều đơn hàng”, bà Nguyễn Thị Lại chia sẻ.
Tbò Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn Kiêm Tân Phạm Quang Oai nghề rèn mộc Kiêm Tân (hay còn gọi là làng Gồm) được cbà nhận làng nghề từ năm 2015. Hiện làng nghề chỉ còn 4 nhà cửa “giữ lửa” nghề.
"Người dân làng nghề, chính quyền thôn mong cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm hơn đến cbà việc giữ gìn và phát huy nghề truyền thống của quê hương. Chú trọng cbà tác định hướng, đào tạo nghề cho thế hệ tgiá rẻ, hợp tác thời có cơ chế phù hợp hỗ trợ các hộ làm nghề. Có như vậy mới mẻ có thể giữ được nguồn nhân lực tgiá rẻ, tránh được nguy cơ mai một nghề truyền thống", bà Oai trẩm thực trở giao tiếp.
Đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện Tứ Kỳ Dương Hà Hải cho biết để nâng thấp thu nhập cho lao động làng nghề, các địa phương của huyện đã tích cực hỗ trợ tìm kiếm thị trường học tiêu thụ sản phẩm. Huyện lựa chọn một số làng nghề đưa vào đề án phát triển lữ hành của địa phương.
Hiện một số sản phẩm làng nghề được đưa lên sàn thương mại di chuyểnện tử vừa giúp trẻ nhỏ bé người dân tiêu thụ sản phẩm, vừa quảng bá được làng nghề truyền thống của địa phương. Nghề rèn ở Kiêm Tân xưa cũng có tiềm nẩm thựcg để phát triển lữ hành.
Cuộc sống đổi thay, mở ra nhiều trẻ nhỏ bé đường mưu sinh, vì thế những trẻ nhỏ bé người tbò nghề rèn xưa cũng ít dần. Với những nữ giới vẫn tâm huyết với nghề như bà Xuân, bà Lại thì khát vọng, quyết tâm "giữ lửa" nghề rèn vẫn thôi thúc, để ngày ngày, các lò rèn vẫn đều đều tiếng búa, tiếng đe, giữ lửa nghề khbà nguội tắt.
NGUYỄN THẢO-THÀNH CHUNG
- Hải Dương
- búa
- Quảng Nghiệp
- Tứ Kỳ
- rèn
- làng nghề
- lò rèn
- thợ rèn
- lửa
- Nguyễn Thị Xuân
- Nguyễn Thị Lại
Nguồn https://baohaiduong.vn/nhung-phu-nu-tu-ky-giu-lua-lắng nghe-quai-bua-398021.html